Trường Đại học Cambridge- University of Cambridge

 Trường Đại Học Cambridge:

Được thành lập vào năm 1209, và được Vua Henry III ban đặc quyền hoàng gia năm 1231. Cambridge là viện đại học lâu đời thứ hai trong thế giới nói tiếng Anh, chỉ sau Viện Đại học Oxford, và là viện đại học lâu đời thứ tư trên thế giới hiện đang hoạt động. Cambridge hình thành từ một nhóm học giả đã rời bỏ Viện Đại học Oxford sau khi xảy ra tranh cãi giữa những người này với cư dân địa phương.Hai “viện đại học cổ xưa” này có nhiều điểm tương đồng nên thường được gọi bằng tên chung “Oxbridge“.

Cambridge được tạo thành bởi một loạt các cơ sở khác nhau, bao gồm 31 trường đại học thành viên và hơn 100 khoa học thuật được tổ chức thành sáu trường.Các tòa nhà của viện đại học nằm khắp thành phố, nhiều trong số đó rất có giá trị lịch sử. Các trường đại học này là những cơ sở tự điều hành, được thành lập như là những phần cấu thành viện đại học. Vào năm 2014, viện đại học có tổng thu nhập là 1,51 tỉ bảng Anh, trong đó 371 triệu bảng là từ các hợp đồng và các khoản tài trợ nghiên cứu. Viện đại học và các trường thành viên có tổng cộng 4,9 tỉ bảng Anh trong các quỹ hiến tặng, con số lớn nhất ở bất cứ viện đại học nào bên ngoài Hoa Kỳ. Cambridge là thành viên của nhiều hiệp hội và là một phần của “Tam giác vàng” – ba viện đại học hàng đầu ở Anh: Cambridge, London, và Oxford.

Sinh viên Cambridge học qua những bài giảng và những buổi thực hành trong phòng thí nghiệm do các khoa tổ chức dưới sự giám sát của các trường đại học. Cambridge điều hành tám viện bảo tàng nghệ thuật, văn hóa, và khoa học, bao gồm Viện Bảo tàng Fitzwilliam và một vườn bách thảo. Các thư viện của Cambridge có tổng cộng khoảng 15 triệu cuốn sách. Nhà xuất bản Viện Đại học Cambridge, một bộ phận của viện đại học, là nhà xuất bản lâu đời nhất thế giới và là nhà xuất bản lớn thứ hai thế giới do một viện đại học điều hành. Cambridge thường xuyên được xếp là một trong những viện đại học hàng đầu thế giới trong các bảng xếp hạng.

Cambridge có nhiều cựu sinh viên nổi tiếng, trong đó có một số nhà toán học, khoa học, và chính trị gia kiệt xuất; Cambridge đã sản sinh ra hơn 100 nhân vật đạt giải Nobel, nhiều hơn bất kỳ trường đại học nào.trên thế giới.Trong suốt lịch sử của mình, viện đại học được miêu tả trong nhiều tác phẩm văn chương và nghệ thuật của nhiều tác giả trong đó có Geoffrey ChaucerE. M. Forster, và C. P. Snow

 

Cựu Sinh Viên Toán Học và Khoa Học Của Cambridge: 

Có khoảng từ 85 đến 88 khôi nguyên Giải Nobel là những nhân vật liên quan đến Cambridge, trong số đó có tổng cộng 61 người từng theo học ở đây. Ngoài ra còn có 8 Huy chương Fields và 2 Giải Abel được trao cho những học giả Cambridge.

Nổi bật nhất là truyền thống lâu đời và vượt trội của viện đại học về toán học và các ngành khoa học.

Trong số những triết gia tự nhiên nổi tiếng nhất của Cambridge có Sir Isaac Newton, người đã dành gần hết cuộc đời làm việc tại viện đại học và tiến hành nhiều cuộc thí nghiệm tại Trinity College. Sir Francis Bacon, người chịu trách nhiệm phát triển Phương pháp khoa học, nhập học ở Cambridge khi mới 12 tuổi, và những nhà toán học tiên phong như John Dee và Brook Taylor.

Hardy, Littlewood, và De Morgan ở trong số những nhà toán học nổi tiếng nhất trong lịch sử đương đại. Sir Michael Atiyah là một trong những nhà toán học quan trọng nhất trong hạ bán thế kỷ 20; William Oughtred, John Wallis, Srinivasa Ramanujan là những tên tuổi lớn trong toán học.

 

Sir  Charles Darwin

 

Trong sinh họcCharles Darwin từng theo học ở Cambridge, Francis Crick và James Watson phát triển mô hình cấu trúc ba chiều của DNA. Gần đây hơn là Sir Ian Wilmut với cừu Dolly, động vật có vú đầu tiên được nhân bản vô tính năm 1996. Nhà tự nhiên học David Attenborough tốt nghiệp Cambridge, trong khi Jane Goodall, chuyên gia hàng đầu về tinh tinh làm luận án tiến sĩ tại Darwin College.

 

Sir Charles Babbage

 

Cambridge cũng được xem là nơi khai sinh máy điện toán khi nhà toán học Charles Babbage thiết kế hệ thống điện toán đầu tiên từ giữa thập niên 1800. Alan Turing tiếp bước phát minh những nguyên lý nền tảng cho khoa học điện toán đương đại, rồi Maurice Wilkes hình thành máy điện toán đầu tiên có thể lập trình. Webcam cũng là một phát minh tại Cambridge khi những nhà khoa học muốn biết chắc cà phê đã có sẵn ở phòng ăn mà không cần phải rời khỏi phòng thí nghiệm.

 

Sir James Chadwick

 

Ernest Rutherford, được xem là cha đẻ của ngành vật lý nguyên tử, dành gần trọn đời mình ở Cambridge, tại đây ông cộng tác với Niels Bohr, người tìm ra cấu trúc và chức năng của nguyên tử, J. J. Thomson, nhà khoa học khám phá electron, Sir James Chadwick tìm ra neutron. Sir John Cockcroft và Ernest Walton cộng tác để tìm cách tách nguyên tử. J. Robert Oppenheimer, người đứng đầu Dự án Manhattan phát triển bom hạt nhân, từng học ở Cambridge dưới sự dẫn dắt của Rutherford và Thompson.

 

Sir John Polkinghorne

 

Những nhà thiên văn học như Sir John Herschel, Sir Arthur Eddington, và nhà vật lý Paul Dirac từng nhiều năm giảng dạy ở Cambridge; Stephen Hawking là giáo sư toán ở đây từ năm 2009. John Polkinghorne từng là nhà toán học ở Cambridge trước khi trở thành mục sư Anh giáo, ông được phong tước hiệp sĩ, và được trao Giải Templeton nhờ những đóng góp của ông về mối tương quan giữa khoa học và tôn giáo.

Trong số những nhà khoa học nổi tiếng ở Cambridge có Henry Cavendish, người tìm ra hydrogenFrank Whittle, đồng phát minh động cơ phản lực; Lord Kelvin, William Fox Talbot, Alfred North Whitehead, Sir Jagadish Chandra Bose, Lord Rayleigh, Georges Lemaître, và Frederick Sanger, người đoạt hai giải Nobel.

 

Về thành tựu của bộ môn Toán Học và Vật Lý Học của Cambridge:

 

Sir Isaac Newton

 

Thi sát hạch môn toán một thời từng là kỳ thi bắt buộc cho tất cả sinh viên muốn lấy bằng Cử nhân, học vị thấp nhất tại Cambridge cho các ngành đại cương và khoa học. Từ thời Isaac Newton vào cuối thế kỷ 17 cho đến giữa thế kỷ 19, viện đại học đặc biệt chú trọng đến môn toán ứng dụng, nhất là môn vật lý toán (phát triển các phương pháp toán học ứng dụng trong vật lý). Kỳ thi này còn gọi là Tripos.[17] Sinh viên được bằng hạng ưu sau khi đậu kỳ thi Tripos toán học được gọi là wrangler, thủ khoa là Senior Wrangler. Do có tính cạnh tranh cao, chương trình Toán học Tripos tại Cambridge đã giúp tạo nên những tên tuổi lớn trong nền khoa học Anh, trong đó có James Clerk MaxwellLord Kelvin, và Lord Rayleigh.[18] Tuy nhiên, có những cựu sinh viên nổi tiếng như G. H. Hardy không thích hệ thống này, họ cảm thấy người ta quá chú trọng đến điểm số trong các kỳ thi mà không quan tâm đến chính môn học.

Môn toán thuần túy tại Cambridge đã đạt được nhiều thành tựu trong thế kỷ 19 nhưng lại bỏ qua những phát triển căn bản của toán học Pháp và Đức. Công cuộc nghiên cứu toán thuần túy tại Cambridge đạt chuẩn mực quốc tế cao nhất vào đầu thế kỷ 20 nhờ công của G. H. Hardy và cộng sự của ông, J. E. Littlewood. Về môn hình học, W. V. D. Hodge đã giúp Cambridge hội nhập với quốc tế trong thập niên 1930.

Mặc dù hoạt động đa dạng trong nghiên cứu và giảng dạy, Cambridge cho đến ngày nay vẫn duy trì thế mạnh của mình trong toán học. Các cựu sinh viên Cambridge đoạt sáu Huy chương Fields và một Giải Abel toán học, trong khi đó những cá nhận đại diện cho Cambridge giành được bốn Huy chương Fields.[19] Viện đại học cũng mở Chương trình Cao học Toán Cao cấp.

 

Đóng góp cho khoa học: 

Cựu sinh viên Cambridge đã có nhiều đóng góp quan trọng cho

 

Các Nhân Vật nỗi Tiếng của Cambridge:

 

 

 

 

 

 

 

 

Leave Comments

0972.703.112
0972703112